Đây là chương tôi rất thích trong tác phẩm “Sự Bất Tử” của Milan Kundera. Một ngày nào đó, tôi mong mình sẽ viết được dù chỉ một nửa như ông – cách một câu chuyện được kể vừa sắc bén trong quan sát, vừa sâu sắc trong tư duy, mà vẫn giữ được nét nhẹ nhàng, tự nhiên trong cách kể.
Trong thế giới chúng ta, nơi ngày qua ngày càng có thêm nhiều những khuôn mặt giống nhau, con người muốn khẳng định sự độc đáo của cái “tôi” và thuyết phục mình tin vào tính độc nhất không lặp lại của cái “tôi” đó, thật không dễ dàng. Có hai cách nuôi dưỡng tính độc nhất của cái “tôi”: phép cộng và phép trừ. Agnès trừ khỏi cái “tôi” của mình tất cả những gì xa lạ, ngoại lai để mong đạt tới cái bản chất thuần túy (không phải không có nguy cơ là kết quả của phép trừ như thế chỉ còn là con số không). Cách của Laura thì ngược hẳn lại: để cái “tôi” của mình trở nên rõ rệt hơn, dễ thấy, dễ nắm bắt hơn, có hình khối hơn, nàng đã không ngừng thêm vào ngày càng nhiều thuộc tính mới với lòng mong muốn đồng nhất với chúng (không phải không có nguy cơ là chất chồng thêm nhiều thuộc tính như thế, bản chất của chính cái “tôi” sẽ biến mất).
Chúng ta hãy lấy thí dụ con mèo của nàng. Sau khi ly hôn, Laura ở một mình trong căn hộ rộng nên cảm thấy buồn. Nàng muốn chia sẻ cảnh cô đơn dù chỉ với một con vật nào đó cũng được. Lúc đầu nàng định nuôi chó, nhưng rồi nàng hiểu là chó cần chăm sóc đến mức mà nàng không thể làm được. Thế là nàng nuôi mèo, một con mèo Xiêm to đẹp và hung dữ. Laura càng sống lâu với con mèo, và kể chuyện về nó cho bạn bè nghe, thì con vật mà thực ra nàng chọn một cách ngẫu nhiên và không chắc chắn lắm (nói cho cùng thì thoạt đầu nàng muốn nuôi chó!) càng có ý nghĩa lớn: nàng ca ngợi không mệt mỏi những phẩm chất của con mèo, bắt mọi người phải trầm trồ trước nó. Nàng tìm thấy ở nó đức tính độc lập, kiêu hãnh, sự tự do và vẻ duyên dáng thường trực (khác với vẻ duyên dáng của con người hay bị mất đi vì những khoảnh khắc vụng về và thô kệch), nàng thấy ở nó một mẫu mực cho mình; nàng thấy chính mình ở nó.
Vấn đề ở đây hoàn toàn không phải ở chỗ Laura có những tính tình hao hao giống con mèo hay không; điều quan trọng là nàng đã cho vẽ nó lên gia huy của mình, và con mèo (tình yêu với con mèo, sự biện hộ cho mèo) đã trở thành một trong những thuộc tính của cái “tôi” của nàng. Vì lẽ nhiều tình nhân của nàng ngay từ đầu đã bực tức con vật vì kỳ và hung dữ này, chẳng việc gì nó cũng khè và cào họ, nên nó đã trở thành hòn đá thử vàng cho sức mạnh của Laura; nàng dường như muốn nói với từng người rằng: anh sẽ có được tôi, nhưng là tôi trong thực tế, tức là cùng với con mèo của tôi. Con mèo trở thành hình ảnh tâm hồn nàng, và kẻ tình nhân trước hết phải chấp nhận tâm hồn nàng, nếu anh ta muốn chiếm được cơ thể nàng.
Phép cộng hoàn toàn dễ ưa, nếu con người cộng thêm vào cái “tôi” của mình con mèo, con chó, thịt lợn nướng, tình yêu biển và yêu tắm nước lạnh. Tình hình sẽ kém điền viên đi, nếu ai đó có ý muốn thêm vào cái “tôi” của mình tình yêu chủ nghĩa cộng sản, yêu Tổ quốc, yêu Mussolini, yêu giáo hội Thiên Chúa, hay yêu chủ nghĩa vô thần, yêu chủ nghĩa phát xít, hay yêu chủ nghĩa chống phát xít. Trong cả hai trường hợp, cách thức vẫn tuyệt đối là một: người khăng khăng bảo vệ tính ưu việt của con mèo hơn tất cả các con vật khác thực chất cũng giống như người khẳng định rằng Mussolini là vị cứu tinh duy nhất của Italia: anh ta khoe khoang thuộc tính cái “tôi” của mình, và muốn thuộc tính đó (con mèo hay Mussolini) cũng được mọi người xung quanh thừa nhận và yêu mến.
Đó là cái nghịch lý lạ lùng mà tất cả những ai nuôi dưỡng cái “tôi” bằng phép cộng đều mắc phải: họ thêm vào để tạo ra những cái “tôi” độc nhất, không thể lặp lại, nhưng lập tức họ lại biến thành những người tuyên truyền cho những thuộc tính thêm vào đó và gắng hết sức để càng có nhiều người giống họ càng tốt, do đó tính độc nhất của cái “tôi” ấy (đã khó công như thế mới có được) nhanh chóng biến mất.
Chúng ta có thể hỏi một cách hoàn toàn hợp lý rằng: vì sao con người yêu mèo (hay Mussolini) lại không thỏa mãn với tình yêu của mình, mà lại muốn áp đặt nó cho người khác? Chúng ta thử trả lời bằng cách nhớ lại cô gái trẻ trong phòng tắm hơi đã tuyên bố như một lời tuyên chiến rằng cô ta thích tắm nước lạnh. Bằng cách đó cô ta đã tức khắc tách mình ra khỏi nửa phần nhân loại, ra khỏi số những người thích tắm nước nóng hơn. Tai họa là ở chỗ nửa phần nhân loại còn lại lại càng giống cô ta hơn. Ôi, điều đó thật buồn biết mấy! Người thì nhiều, tư tưởng thì ít, vậy làm sao chúng ta phân biệt được với nhau? Cô gái trẻ ấy chỉ biết một cách để vượt qua sự tương đồng đáng bực giữa mình với đám đông vô vàn những người thích tắm nước lạnh: cô ta phải nói câu “Tôi tôn thờ nước lạnh” ở ngay cửa phòng tắm hơi, đồng thời phải nói một cách quá quyết để hàng triệu phụ nữ khác cũng khoái tắm nước lạnh trong phút chốc sẽ thành ra những kẻ bắt chước thảm hại. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn để tình yêu (vô nghĩa một cách vô tội) đối với nước lạnh này trở thành thuộc tính của cái “tôi”, thì chúng ta phải cho thế giới biết rằng vì tình yêu đó chúng ta sẵn sàng chiến đấu.
Người lấy tình yêu với Mussolini làm thuộc tính cái “tôi” của mình thì thành nhà tranh đấu chính trị; người mê mèo, mê âm nhạc hay mê đồ gỗ cũ thì mang quà tặng người thân.
Hãy thử hình dung là anh có một người bạn yêu Schumann và ghét Schubert, trong khi anh lại yêu mê mệt Schubert, và chán Schumann. Anh sẽ chọn đĩa nhạc nào tặng bạn anh nhân ngày sinh? Schumann mà người bạn yêu hay Schubert mà anh tôn thờ? Lẽ tự nhiên là Schubert. Nếu đem Schumann tặng cho người bạn, anh sẽ có cảm giác khó chịu là món quà đó không phải xuất phát từ tấm lòng mà giống như một món đồ hối lộ để tranh thủ thiện cảm của bạn. Khi tặng quà, anh tặng vì tình yêu, anh muốn trao cho bạn một mảnh con người mình, một mảnh trái tim mình! Bởi vậy anh sẽ đem tặng người bạn đĩa nhạc Dang Dở của Schubert mà khi anh ra về rồi người bạn sẽ nhổ nước miếng vào nó, sau đó đi găng, dùng hai ngón tay nhón lấy nó đem quăng vào thùng rác.
Trong vòng vài năm Laura đã đem tặng cho vợ chồng người chị bộ bát đĩa, bộ đồ trà, lọ đựng hoa quả, đèn, ghế du dưa, khoảng năm cái gạt tàn thuốc, khăn trải bàn và cái chính là một cây đàn piano mà một hôm hai người đàn ông lực lưỡng bất ngờ khiêng đến và hỏi đặt vào đâu. Laura rạng rỡ: “Em muốn tặng anh chị một món quà buộc anh chị nhớ về em ngay cả khi em không ở bên anh chị.”
Sau khi ly hôn, những lúc rỗi rãi Laura đều đến nhà người chị. Nàng chăm sóc Brigitte như con mình, còn cây đàn nàng mua cho chị chủ yếu là vì nàng muốn dạy đứa cháu chơi. Nhưng Brigitte lại ghét đàn piano. Agnès sợ Laura cảm thấy bị xúc phạm nên khuyên con gái hãy cố gắng dành chút tình cảm cho những hàng phím đen trắng. Brigitte phản đối: “Con phải học chơi piano chỉ là để làm vừa lòng dì ấy sao?” Rốt cuộc mọi việc đều dở: qua vài tháng chiếc piano chỉ còn là một thứ đồ trang trí, thậm chí là một thứ trở ngại thì đúng hơn; nó chỉ còn là một hồi ức buồn về một dự định không thành, chỉ là một cơ thể trắng cồng kềnh (vâng, cây đàn màu trắng) không ai thèm muốn.
Nói đúng ra, Agnès chẳng thích gì cả bộ đồ trà, ghế du dưa, đàn piano. Không phải những đồ vật đó xấu xí, mà vì trong chúng có cái gì đầy lập dị, không hợp với tính cách, sở thích của nàng. Vì vậy nàng không chỉ thành thực vui sướng mà còn thở phào nhẹ nhõm hơi vị kỷ khi một hôm (khi cây đàn đã ở nhà nàng sáu năm không ai động đến) Laura báo với nàng là Bernard, anh bạn trẻ của Paul, đã yêu mình. Người phụ nữ đam mê tình yêu, Agnès nghĩ, sẽ tìm được cho mình những việc thú vị hơn là tặng quà cho người chị và dạy dỗ đứa cháu.